Sự quan tâm và chăm sóc kỹ lưỡng trong suốt quá trình sản xuất sẽ đảm bảo sự thành công trong việc nuôi cá vược và đạt được sản lượng cao.
Nội Dung
Chọn cá vược bố mẹ
- Cá bố mẹ được lựa chọn từ nguồn cá nuôi thương phẩm hoặc từ cá đánh bắt tự nhiên.
- Cá bố mẹ được chọn phải đáp ứng các tiêu chuẩn như: cá khỏe mạnh, hình dạng cân đối, màu sắc sáng tự nhiên.
- Cá đực có trọng lượng trên 2,5 kg/con, cá cái có trọng lượng trên 4 kg/con.
- Thuần dưỡng cá bố mẹ:
- Trước khi đưa vào ao nuôi, cá bố mẹ cần được thuần dưỡng để thích nghi với môi trường sống nhân tạo, đặc biệt đối với cá có nguồn gốc tự nhiên.
Nuôi cá vược bố mẹ
- Có hai hình thức nuôi cá bố mẹ: nuôi trong lồng và trong bể xi măng.
- Nuôi trong lồng: Sử dụng lồng cá làm bằng lưới nilon với kích thước từ (5x5x2) m đến (10x10x2) m, mắt lưới 5 – 8 mm. Lồng được đặt ở nơi yên tĩnh, nước trong sạch và có lưu thông. Mồi được giữ trong lồng bằng thùng phuy hoặc tre.
- Nuôi trong bể xi măng: Sử dụng bể xi măng có dung tích 75 – 150 m3. Bể cần được vệ sinh sạch và khử trùng bằng Chlorine nồng độ 40 ppm, sau đó rửa sạch bằng nước ngọt trước khi cấp nước biển sạch vào.
- Mật độ thả cá trung bình là 1 kg/m3.
- Đảm bảo chất lượng nước với nhiệt độ khoảng 28 – 32°C, độ mặn 29 – 32 ‰ và pH 6,8 – 8.
- Cung cấp khẩu phần ăn hàng ngày khoảng 3 – 5% trọng lượng thân, thường vào chiều muộn (16 – 17 giờ).
- Theo dõi hoạt động và sức khỏe của cá thường xuyên, vệ sinh lồng và bể định kỳ 15 ngày. Kiểm tra tình trạng sinh sản bằng que thăm trứng đối với cá cái và vuốt sẹ đối với cá đực.
Sản xuất và sinh sản
Đẻ tự nhiên
- Trước khi cho đẻ 4 tuần, chuyển cá bố mẹ vào bể với mật độ 1 kg/m3 và tỷ lệ đực cái là 1:1. Thay nước hàng ngày với tỷ lệ 80 – 100%, đảm bảo độ mặn 30‰.
- Trong môi trường và chất lượng nước thích hợp, cá cái sẽ trương bụng khoảng 1 – 2 tuần trước khi đẻ. Cá đực hoạt động bình thường và chủ động, trong khi đó cái giảm ăn và tách đàn.
- Việc đẻ tự nhiên diễn ra đồng thời với cá đẻ ngoài bãi đẻ, thường từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 7, vào khoảng 19 – 23 giờ đêm của ngày thứ nhất đến ngày thứ 8 trong kỳ trăng non hay trăng tròn.
Kích thích sinh sản bằng tiêm hormone
- Sử dụng hormone kích thích rụng trứng như HCG (Human Choriomic Gonadotropin).
- Tiêm liều ban đầu là 50 UI HCG/kg và 0,5 – 1 mg não thùy cá chép, sau đó tiêm liều thứ hai là 100 – 200 UI HCG và 1,5 – 2 mg não thùy sau 12 giờ.
- Cá đực được tiêm một nửa liều so với cá cái.
- Thời điểm tiêm kích thích sinh sản được tính sao cho cá đẻ vào buổi tối.
Kích thích bằng thay đổi môi trường
- Trước khi mùa đẻ đến 1 – 2 tháng, cá bố mẹ có kích cỡ trên 4 kg được chuyển vào bể đẻ với mật độ thả 1 con/4 – 5 m3.
- Ban đầu, độ mặn trong bể giống như trong lồng hoặc ao nuôi trước đây.
- Sau 2 – 3 ngày, cá đã thích nghi, độ mặn được giảm dần xuống 20 – 25‰ và duy trì trong 7 ngày.
- Hàng ngày, thay 60 – 70% nước để tăng độ mặn lên 30 – 32‰, giống như khi cá mới di cư đi đẻ.
- Vào những ngày trăng non hoặc trăng tròn, lúc giữa trưa, hạ mức nước xuống còn 30 cm và phơi nắng 3 – 4 giờ để tăng nhiệt độ lên 30 – 32°C. Sau đó, cho nước biển mới vào để giảm nhiệt độ xuống 27 – 28°C, giống như triều lên.
- Nếu cá đã chín muồi sinh dục tốt, chúng sẽ đẻ ngay trong đêm đó. Nếu không, có thể lặp lại quy trình trên hoặc tiêm hormone.
Thụ tinh nhân tạo
- Sử dụng phương pháp thụ tinh khô.
- Vuốt trứng cá cái trực tiếp vào dụng cụ khô và sạch, sau đó cho tinh dịch vào.
- Dùng lông gà khuấy đều trứng và tinh dịch trong khoảng 2 – 3 phút.
- Rửa trứng 3 – 4 lần và chuyển vào bể ấp.
Thu và ấp trứng
- Sử dụng vợt thu trứng bằng lưới mềm, mịn với kích thước mắt lưới 200 – 300 µm để thu trứng trong bể đẻ vào sáng sớm ngày hôm sau.
- Rửa sạch trứng và chuyển vào bể ấp tròn với mật độ ấp 500 – 1.000 trứng/lít.
- Độ mặn tốt nhất là khoảng 28 – 30‰.
- Sục khí nhẹ để tránh trứng bị chìm xuống đáy, và loại bỏ những trứng không thụ tinh bằng xi phông.
- Sau 10 giờ, thay 50% nước trong bể ấp. Thời gian ấp là 17 – 18 giờ ở nhiệt độ 26 – 28°C, và trứng sẽ nở.
Ương ấu trùng
Ương trong nhà:
- Bể ương có thể tích 3 – 10 m3.
- Các trang thiết bị như hệ thống bể, dây sục khí, lưới, vợt… được tẩy trùng bằng Chlorine.
- Mật độ 50 – 100 ấu trùng/lít nước.
- Độ mặn được duy trì khoảng 28 – 30‰.
- Hàng ngày, thay nước khoảng 10 – 20%.
- Có thể ương ấu trùng theo phương pháp nước xanh hoặc nước trong.
- Đối với ương ấu trùng trong hệ thống nước trong, sau khi nở hai ngày, cho ấu trùng ăn luân trùng (kích cỡ 100 µm) với mật độ 2 – 3 con/ml. Tăng mật độ luân trùng từ 3 – 5 con/ml từ ngày 3 đến ngày 10, và từ 5 – 10 con/ml từ ngày 11 đến ngày 14. Đồng thời, tăng kích cỡ luân trùng từ 100 µm lên 200 µm sau ngày thứ 5. Sau ngày thứ 11, ấu trùng có kích cỡ khoảng 4,5 mm sẽ được cho ăn ấu trùng Artemia.
Ương ngoài trời:
- Sau 14 ngày ương trong nhà, phân cỡ và chuyển ấu trùng vào bể ương ngoài trời để ương đến ngày tuổi 21.
- Mật độ khoảng 20 – 40 ấu trùng/lít, độ mặn 25 – 26 ‰ và hàng ngày thay nước khoảng 50%.
- Các loại thức ăn sử dụng có thể là Artemia trưởng thành hoặc thức ăn hỗn hợp, cho ăn 8 lần/ngày.
Ương cá hương:
- Khi cá đạt tuổi 21 ngày, phân cỡ và chuyển cá hương vào bể ương khác với mật độ 10 – 20 con/lít.
- Độ mặn giảm xuống 20 – 25‰ và hàng ngày thay nước với tỷ lệ khoảng 80%.
- Sau 30 ngày, chuyển cá vào ao hoặc lồng để tiếp tục ương. Có thể ương cá trong ao đất diện tích 20 – 50 m2, sâu 0,8 – 1 m, hoặc ương trong lồng với kích cỡ lồng thích hợp từ (2x2x1) m đến (5x2x1) m, mắt lưới 1 mm.
- Thức ăn chủ yếu bao gồm cá xay hoặc thức ăn nhân tạo, với lượng cho ăn hàng ngày khoảng 8 – 10% trọng lượng cơ thể.
- Cá đạt trọng lượng khoảng 10 g sau 45 ngày và có thể được nuôi để thu hoạch thịt.
Theo dõi canuocngot.vn để tìm hiểu về nhiều loại cá nữa nhé!